Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thuận Thiên công chúa Lý Oánh là trưởng nữ của vua Lý Huệ Tông, vị vua cuối cùng trong Lý Bát Đế. Nàng có lẽ là vị công chúa duy nhất trong lịch sử chào đời trong tình huống “đẻ rơi” trên đường cha mẹ chạy trốn khỏi hoàng cung, trốn khỏi sự thù ghét mẹ nàng của Đàm thái hậu tới chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh và họ Trần (nhà ngoại của nàng). Năm Bính Tý, Kiến Gia năm thứ 6 (1216), mùa hạ, tháng 6 (âm lịch), Lý Oánh được sinh ở bãi Cửu Liên, sắc phong là Thuận Thiên công chúa. Vì sao vua Lý Huệ Tông lại dùng tước phong “Thuận Thiên” vốn là niên hiệu của Lý Thái Tổ, vị vua khai mở Lý triều? Có lẽ lúc đó ông đã ước mong con gái mình có được cuộc đời thuận lợi, bình yên như thời kỳ ấy. Nếu so sánh với chính em gái mình là Chiêu Thánh công chúa (Lý Chiêu Hoàng, Lý Thiên Hinh) thì có thể nói Thuận Thiên có đường đời êm ái, bớt sóng gió thăng trầm, vinh hiển phú quý hơn một chút. Nhưng có lẽ đằng sau những tư liệu ít ỏi sử sách còn chép lại hẳn nàng đã có bao cơn bão lòng trong vòng xoáy vương quyền ở dưới thời nhà Lý mạt vận, nhà Trần soán ngôi.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/3ed517106077b1f58183717fed994d899c6a1fefb3d1f1d833b8fa8b8093ed81.jpg"alt="2. Thuan Thien cong chua thuan theo y troi.jpeg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thuận Thiên công chúa chào đời cùng với quyết định dựa vào họ Trần của vua Lý Huệ Tông đã giúp cho mẹ nàng danh chính ngôn thuận ngồi vào ngôi vị Thuận Trinh Hoàng hậu. Từ đây họ Trần chính thức trở thành thế lực mạnh, dần áp đảo và trở thành dòng họ nắm thực quyền dưới triều Huệ Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lần sinh nở thứ hai của Hoàng hậu Trần Thị Dung tiếp tục là hoàng nữ và mong muốn có một hoàng tử kế vị đã không thể thành hiện thực. Vua Huệ Tông mắc bệnh không làm chủ được chính sự đã trở thành cái cớ để họ Trần can thiệp sâu vào hoàng tộc. Và kết quả là mới 7, 8 tuổi Thuận Thiên công chúa đã phải kết hôn với Trần Liễu con trai trưởng của Trần Thừa, lúc này Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt (tức Thiện Đạo Quốc mẫu). Bởi là công chúa nên Thuận Thiên đương nhiên là chính thất, nhưng một cô bé còn nhỏ như vậy đâu đã biết gì. Việc kết hôn ở độ tuổi quá sớm của Thuận Thiên cho thấy đây là sự sắp đặt của họ Trần cho Trần Liễu trở thành con rể trưởng của vua Lý Huệ Tông và rất có thể sẽ thành người nối ngôi chính danh. Thế nhưng trước sức ép của họ Trần và bệnh tình của bản thân, trước khi xuất gia, vua Lý Huệ Tông đã táo bạo truyền ngôi cho con gái thứ mới 6 tuổi là Chiêu Thánh công chúa trở thành Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Phải chăng đó là cách duy nhất nhà vua thể hiện sự phản kháng với mưu đồ của họ Trần và vua nghĩ đằng nào cũng là một đứa trẻ ngồi lên ngai vàng vậy thì ngài chọn đứa trẻ mang họ Lý (vì Thuận Thiên đã thành dâu họ Trần). Dù biết sẽ chẳng thể dài lâu nhưng chí ít vua cũng để lại giang sơn cho con gái mình. Nhưng có lẽ ông không thể ngờ cuộc đời sau này của cả hai cô con gái đều gian truân vì chính ngai vàng này.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mười mấy năm làm vợ&nbsp; Trần Liễu có lẽ là khoảng thời gian êm đẹp nhất mà Thuận Thiên có, nàng may mắn hơn em gái khi có thể trưởng thành bình yên hơn. Bởi đã làm dâu họ Trần từ sớm, nàng không bị mắc kẹt trong cuộc chiến quyền lực giữa tông thất họ Lý với chính quyền họ Trần. Bởi chỉ là vương phi, nàng không phải chịu sức ép sinh con nối dõi hay đối mặt với cuộc chiến hậu cung. Có thể nói Thuận Thiên được chồng và nhà chồng yêu thương. Sử sách ghi lại Thuận Thiên sinh cho Trần Liễu đích tử Trần Doãn (được phong Vũ Thành vương) và sau này có thêm Trần Quốc Khang. Nàng có hạnh phúc trong hôn nhân và đã được tận hưởng niềm vui làm mẹ. Trong những năm tháng ấy, chắc hẳn nàng cũng phải chịu nỗi đau khi cha sớm qua đời, cũng từng trăn trở với cuộc hôn nhân thị phi của mẹ mình và người cậu họ Trần Thủ Độ, cũng từng xót xa khi chứng kiến em gái từ nữ đế trở thành hoàng hậu rồi lại mất đi đứa con trai đầu lòng. Nhưng ở hoàn cảnh đã là con dâu họ Trần, lớn lên trong ngôi nhà họ Trần, nàng chỉ có thể chọn bình yên mà sống trước biến động của thời cuộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thế nhưng những ngày bình yên cũng chẳng kéo dài mãi. Năm 1237, trước nỗi lo huyết thống hoàng gia đứt đoạn, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đã ép buộc Trần Thái Tông phế bỏ Chiêu Thánh hoàng hậu.&nbsp; Lúc này Thuận Thiên đang mang thai 3 tháng và đồng thời là công chúa của Lý Huệ Tông “bị chọn” làm hoàng hậu. Màn “giành vợ cướp con” này dẫn tới sự kiện Trần Liễu làm loạn bất thành, Trần Cảnh trốn lên Yên Tử đi tu không được và gây ra mối hiềm khích trong 2 nhánh trưởng thứ họ Trần. Mặc dù có phản kháng nhưng kết cục là cả 4 người cháu đều không thoát khỏi bàn tay Thái sư. Trần Cảnh buộc phải quay về phế lập Hoàng hậu, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, Chiêu Thánh Hoàng hậu bị giáng làm công chúa và bị giam lỏng nơi cung cấm. Còn Thuận Thiên phải trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể mình. Người phụ nữ lúc mang thai 3 tháng là thời điểm mệt mỏi nhất. Ấy vậy mà vào lúc đó,&nbsp; Thuận Thiên còn phải đối mặt với biến cố kinh hoàng, đảo lộn mọi trật tự như vậy. Từ 4 anh chị em, 2 cặp vợ chồng thân thiết trong nhà trở thành những người không còn đủ tự tin để nhìn mặt nhau nữa. Đáng tiếc thay, người được Trần Thủ Độ chọn làm vua là Trần Cảnh mà không phải Trần Liễu, nhưng người được chọn làm hoàng hậu lại là Thuận Thiên mà không phải Chiêu Thánh. Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao Thuận Thiên không phản kháng? Có lẽ phải đặt mình vào vị trí của nàng để hiểu. Trước sức ép của người có thể bất chấp tất cả đạo lý để đảm bảo lợi ích gia tộc như Trần Thủ Độ, vì đứa con nàng hoài thai trong bụng và cả đứa con đang ở phủ Hoài vương, vì tính mạng của người chồng thất thế ngoài kia, vì an nguy của cô em gái bất hạnh bị giam lỏng trong cung, Thuận Thiên không còn lựa chọn nào khác, nàng phải chấp nhận ngồi vào ghế Hoàng hậu nhà Trần. Thế rồi dòng đời đưa đẩy, hai năm sau khi sinh Trần Quốc Khang (đứa con của Trần Liễu trở thành trưởng tử của Trần Thái Tông), ở ngôi Hoàng hậu, Thuận Thiên buộc phải sinh Hoàng tử nối ngôi cho nhà vua. Liên tiếp trong ba năm nàng hạ sinh Hoàng thái tử Trần Hoảng (vua Trần Thánh Tông) và hoàng tử Trần Quang Khải (Chiêu Minh đại vương). Có lẽ niềm an ủi lớn nhất mà nàng có chính là những đứa con và được chứng kiến chúng trưởng thành bình yên hơn, hạnh phúc hơn cha mẹ. Chưa đầy 30 tuổi Thuận Thiên đã làm mẹ của 4 đứa trẻ, sinh 2 con trai cho Trần Liễu và 2 con trai cho Trần Cảnh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép, năm Mậu Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), tháng 6 âm lịch, Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời, hưởng dương 33 tuổi. Có một số tư liệu ghi lại trước khi mất Hoàng hậu sinh hạ Thái Đường công chúa là người con gái đầu tiên của vua Trần Thái Tông. Vậy là Thuận Thiên hoàng hậu đột ngột mất sớm cũng vào độ tuổi 33 như cha mình (vua Lý Huệ Tông). Đến sau cùng, khi đã sinh hạ 5 người con cho hoàng tộc họ Trần chắc hẳn nàng ra đi với sự mệt mỏi và cả nỗi day dứt lo lắng cho những đứa con thơ mất mẹ khi còn nhỏ dại. Sử cũng ghi lại, 3 năm sau khi Thuận Thiên mất, năm 1251, tháng 4 âm lịch, An Sinh vương Trần Liễu qua đời, hưởng dương 41 tuổi. Vậy là 2 người anh, chị trong bi kịch 4 người đã rời đi ở còn tuổi đời còn trẻ. Biết đâu ở một nơi nào đó, Thuận Thiên và Trần Liễu đã có cơ duyên để đoàn tụ cùng nhau sau bể dâu đời người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thuận Thiên Hoàng hậu Lý Oánh, cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi và gian truân, nhưng nàng đã hoàn thành vai trò lịch sử sinh hạ những hậu duệ tài năng, đức độ của hai họ Trần-Lý trở thành quốc chủ Đại Việt. Nàng đã từng hạnh phúc, cũng từng đớn đau, đã từng cười cũng từng khóc trước thời cuộc. Nàng sống đã trọn vẹn một đời nữ nhân hoàng tộc, nàng mất đi cũng để lại đức độ của vị tổ mẫu đầu tiên cho dòng dõi Đông A vang danh sử sách với 3 lần chiến thắng đế quốc Nguyên Mông hung tàn. Là thuận theo ý trời mà cũng chẳng thể lựa chọn, nàng cứ thế trôi theo dòng chảy lịch sử và nàng đã làm tốt nhất những gì có thể cho những người nàng thương yêu, trân quý suốt một đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-3-hue-tong-ly-hao-sam-nguoi-cha-luc-bat-tong-tam"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 3 Huệ Tông Lý Hạo Sảm: Người Cha Lực Bất Tòng Tâm</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Nếu tìm suốt chiều dài lịch sử một người để trao danh hiệu “Nữ hoàng nước mắt” Đại Việt thì đó chỉ có thể là nàng, Nữ đế duy nhất trong thời đại phong kiến: Chiêu Hoàng Lý Thiên Hinh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Lý Chiêu Hoàng cất tiếng khóc chào đời vào tháng 9 âm lịch, năm Mậu Dần 1218. Bi kịch đầu đời của nàng chính là sinh ra trong hoàng tộc vào thời buổi nhà Lý suy tàn. Nàng lại là tiểu công chúa trong khi cha mẹ và bao người khao khát mong đợi một hoàng nam, một người thừa kế. Nàng là con gái thứ của vua Lý Huệ Tông, trước nàng đã có Thuận Thiên công chúa. Mẹ nàng, Thuận Trinh hoàng hậu Trần Thị Dung vốn không được lòng thái hậu, lại chỉ sinh hai con gái nên càng trở thành cái gai trong mắt bà nội. Cha nàng, ông vua ngồi trên ngai vàng nhưng không mang thực quyền, dù rất yêu vợ thương con cũng đành bất lực trước những cuộc đấu đá tranh giành của các phe phái triều đình, bất lực giữa cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu nơi cung cấm. Nàng vốn được cha đặt tên là Phật Kim, nhưng không rõ vì sao sau đó lại đổi thành Thiên Hinh, tước hiệu Chiêu Thánh công chúa. Có lẽ ngay từ việc đặt tên không thuận lợi đã báo hiệu cho một đời sóng gió về sau.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/093bebcd9dcf26efdb9bb803e1332aab754a91d329751fd026a6bc5019b159f6.jpg"alt="1. Nu hoang nuoc mat Ly Thien Hinh.jpeg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Năm 1224, mới 6 tuổi, Thiên Hinh được vua cha truyền ngôi báu trở thành Lý Chiêu Hoàng dưới sức ép của thế lực Trần gia, họ ngoại của nàng. Một cô bé 6 tuổi thì có thể làm được gì ở&nbsp; trên ngai vàng? Nàng chỉ có thể trở thành quân cờ trong tay chính mẹ ruột, thái hậu Trần Thị Dung và những người thân bên ngoại, để rồi nhanh chóng đi tới cuộc đổi thay triều đại sau màn nhường ngôi cho chồng và cũng là anh họ của nàng: Thái Tông Trần Cảnh. Vị Công chúa trở thành Hoàng thái nữ, Nữ đế rồi từ đây nàng lui về hậu cung là Chiêu Thánh hoàng hậu khi vừa 7 tuổi. Người đời trách tội nàng làm mất ngôi nhà Lý, thậm chí Đền Đô cũng chỉ thờ 8 vị vua “Lý Bát Đế” còn vị vua thứ 9 là nàng thì thờ riêng tại Long Miếu. Ở cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nàng đã trở thành “tội nhân” của dòng họ Lý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Bi kịch nối tiếp bi kịch, chẳng bao lâu sau màn đổi thay triều đại, năm 1226 cha nàng, vua Lý Huệ Tông lúc này đã xuất gia, bị thái sư Trần Thủ Độ ép tự vẫn khi mới 32 tuổi. Tiếp đó, với phương châm diệt trừ tất cả những mối nguy với cơ nghiệp nhà Trần, Trần Thủ Độ liên tục ra tay đàn áp họ Lý, hạch tội, truy sát tôn thất, bắt người họ Lý đổi sang họ khác, khiến hoàng tử Lý Long Tường (chú của vua Huệ Tông) phải dẫn theo gia quyến rời bỏ quê hương tới tận Cao Ly nương thân. Vậy là ở ngôi hoàng hậu, mới 8 tuổi, Thiên Hinh liên tiếp chịu nỗi đau mất người thân: mất cha, mất bà, người thân họ nội bị chính họ ngoại truy sát. Ngày mẹ nàng, Trần Thị Dung tái giá lấy Trần Thủ Độ- người cậu họ cũng là người gây ra tấn thảm kịch cho họ Lý, nàng mất luôn chỗ dựa nơi đấng sinh thành. Thiên Hinh chẳng đi đâu cả, nàng vẫn ở Hoàng cung nơi nàng sinh ra và lớn lên, nhưng ngôi nhà đó đã không còn là nhà của nàng nữa. Hoàng cung đã đổi chủ và Thiên Hinh chỉ còn lại một thân một mình, cô đơn trong chính ngôi nhà của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Số phận vẫn không ngừng thử thách người từng ở ngôi nữ hoàng. Lấy chồng từ thưở lên 7, tới năm 15 tuổi thì Thiên Hinh hạ sinh con trai đầu lòng. Tiếc thay Hoàng thái tử Trần Trịnh mất ngay sau khi chào đời để lại nỗi đau khôn nguôi cho cha mẹ. Kể từ đó sức khỏe của Chiêu Thánh hoàng hậu giảm sút. Nàng và Trần Cảnh chung sống nhiều năm nhưng chưa có con nối dõi. Năm 1237, trước nỗi lo huyết thống hoàng gia đứt đoạn, một lần nữa thái sư Trần Thủ Độ ra tay ép buộc Trần Thái Tông phế Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên,chị gái nàng cũng là chị dâu của vua, đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu. Màn “giành vợ cướp con” này dẫn tới sự kiện Trần Liễu (anh của Trần Cảnh, chồng của Thuận Thiên) làm loạn bất thành, Trần Cảnh trốn lên Yên Tử đi tu không được và gây ra mối hiềm khích trong 2 nhánh trưởng thứ mà sau này họ Trần chủ trương hôn nhân nội tộc để ràng buộc, hàn gắn. Kết cục là cả 4 người cháu đều không thoát khỏi bàn tay Thái sư. Thái Tông buộc phải phế lập Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, còn Thiên Hinh bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa. 15 tuổi nàng mất con, 19 tuổi mất ngôi hoàng hậu, mất luôn cả chồng. Nàng từng là nữ đế rồi thành phế đế, từng là hoàng hậu giờ lại thành phế hậu. Nàng không thể rời khỏi Hoàng cung bởi ông cậu Thái sư không để nàng ra khỏi tầm mắt. Thiên Hinh bị giam lỏng trong chính ngôi nhà của mình. Nàng chỉ có thể âm thầm lặng lẽ, cô đơn sống qua ngày.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Mười một năm sau, năm 1248 một lần nữa Thiên Hinh mất đi người chị duy nhất của mình. Thuận Thiên hoàng hậu đột ngột qua đời khi chỉ mới 32 tuổi, để lại 4 đứa trẻ cháu mồ côi còn quá nhỏ. Những năm sau đó, vua Trần Thái Tông có nạp phi nhưng không hề lập hậu. Sử sách không còn nhắc đến Thiên Hinh, nhưng hẳn rằng nàng không thể đếm nổi bao nhiêu nước mắt đã rơi cùng những đứa cháu của mình nơi Hoàng cung rộng lớn mà vắng bóng người thân.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Sử sách chỉ nhắc tới Thiên Hinh trong một chuyện thị phi khác. Năm 1258, sau chiến thắng trước quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông đem gả Chiêu Thánh công chúa cho&nbsp; quan Ngự sử đại phu Lê Tần, người đã lập đại công giúp vua thắng giặc và được ban tên Lê Phụ Trần. Lê Tần vốn là cận thần đồng trang lứa với vua Thái Tông, cũng có nghĩa rằng ở thời điểm ban hôn cả Lê Tần và Lý Thiên Hinh đều đã ngoài 40 tuổi. Quyết định này của vua gây nhiều tranh cãi, đàm tiếu trong thiên hạ. Có người nói nhà vua bạc tình “chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Kẻ chỉ trích nhà Trần luân thường hủ bại, Trần Thái Tông đem vợ ban thưởng, Lê Tần là bầy tôi mà lấy lại vợ vua, Chiêu Thánh chấp thuận gả đi là mất hết liêm sỉ. Cũng có người đời sau đặt giả thiết biết đâu việc ban hôn là bình phong cho cái kết của một mối tình khác. Sử chép lại ngay sau khi ban hôn, trong tháng giêng, Lê Phụ Trần với tước phò mã Bảo Văn Hầu được Vua cử đi sứ nhà Nguyên. Sau khi tái giá, Chiêu Thánh công chúa rời xa kinh thành về phủ họ Lê. Cùng năm, ngày 24 tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Ở tuổi 40, cuộc đời Lý Thiên Hinh rẽ sang một lối khác, lần này là rời xa Hoàng cung nơi nàng gắn bó quá nửa đời người. Có bao nhiêu nước mắt đau thương, mất mát, đắng cay, nghiệt ngã nàng đã khóc suốt thời niên thiếu tới tuổi trung niên? Không ai biết được. Nhưng vào 20 năm cuối của cuộc đời, hẳn nàng đã rơi những giọt nước mắt hạnh phúc khi được làm mẹ, được chứng kiến con trai và con gái trưởng thành. Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng vị hầu Lê Tông sinh năm 1259, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng nguyên Trần Cố. Cả một đời sóng gió của Nữ đế khép lại với hạnh phúc tuy muộn màng nhưng thật xứng đáng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Dù thế nào đi nữa, “Nữ hoàng nước mắt” của Đại Việt cũng đã làm trọn vai trò dấu gạch nối giữa hai triều đại. Dù lịch sử chẳng viết nhiều về nàng nhưng có một sự thật rành rành: cuộc đời đẫm nước mắt của nàng đã góp phần giảm bớt tang thương thời loạn, giúp cho thiên hạ thái bình, Trần triều thịnh trị.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-2-thuan-thien-cong-chua-thuan-theo-y-troi-hay-chang-the-lua-chon"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 2 Thuận Thiên Công Chúa: Thuận Theo Ý Trời Hay Chẳng Thể Lựa Chọn?</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>